06/09/2021
Phần này trình bày chi tiết kết quả của những nỗ lực của chúng tôi nhằm chuẩn hóa các phân tích trước đây về các yếu tố quyết định giá vàng, bằng cách ước tính một phương trình giải thích các biến động dài hạn và ngắn hạn của giá vàng. Bất chấp tầm quan trọng của vàng trong dự trữ ngân hàng trung ương và giá trị của nó đối với các nhà đầu tư như một kho lưu trữ của cải và phương tiện đa dạng hóa rủi ro tiềm năng, có tương đối ít tài liệu học thuật cố gắng ước lượng các yếu tố quyết định giá cả này.
Một yếu tố khác cũng có thể đẩy giá vàng lên cao chính là các bất ổn chính trị. Nhà đầu tư lo sợ chiến tranh, các xung đột dân sự và các căng thẳng quốc tế có thể thúc đẩy nhu cầu mua vàng bởi những lí do tương tự các giai đoạn căng thẳng tài chính nói trên. Chính khả năng trở thành “đồng tiền cuối cùng” có thể trụ vững trong trường hợp hệ thống sụp đổ nghiêm trọng cho người ta động lực để trữ vàng khi tình hình chính trị đặc biệt trầm trọng. Ở một mức độ nào đó, xử lý căng thẳng tài chính chắc chắn phải kéo theo những quan tâm chính trị, nên phân tích riêng rẽ hai khía cạnh không thực sự dễ dàng. Việc thiếu thang đo rủi ro chính trị khách quan càng khiến việc phân tích khó khăn hơn, do đó, để đo lường ảnh hưởng của chính trị lên giá vàng không hề dễ. Tuy nhiên, tại một số thời điểm nhất định, chính trị thực sự có ảnh hưởng đặc biệt quan trọng lên giá vàng. Cụ thể hơn, giá vàng đã được đẩy lên cuối thập niên 70 và đầu thập niên 80 do những sự kiện như Cách mạng Hồi giáo Iran hay cuộc xâm lược Afghanistan của Xô-viết. Giá vàng cũng tăng đột biến ngay sau vụ tấn công 11.9 năm 2001 ở Mỹ. 2.7. Vàng và hoạt động của khu vực kinh tế công Những động thái của các ngân hàng trung ước và các bộ phận khác của khu vực công có tầm ảnh hưởng quan trọng lên giá vàng. Một lí do cho việc này là các ngân hàng trung ương nắm giữ một lượng vàng lớn, 30,500 MT (tấn) vào 2010, tức khoảng 15% tổng lượng doanh số vàng đã được khai quật. Kết quả là, những chính sách của ngân hàng trung ương về mua và bán vàng có thể gây ra ảnh hưởng đáng kể, và cũng dễ dàng bị trải qua những nhiều thay đổi lớn qua các thập kỉ. Những năm thập niên 1950 và 1960, thời kì hoàng kim của hệ thống tỉ giá hối đoái cố định Bretton Woods, các ngân hàng trung ương nói chung chiếm một phần lớn lượng người mua ròng vàng, đây là yếu tố tiên quyết hình thành nguồn trữ vàng của họ. Sau sự sụp đổ của hệ thống Bretton Woods, những năm 1970 và 1980 đã chứng kiến tỉ lệ mua ròng của ngân hàng trung ương gần như không đổi, nhưng chính điều này đã dọn đường c
Nguồn cung của vàng đã gần như không đổi trong suốt một thế kỷ qua, với sản lượng vàng được khai thác hàng năm từ các mỏ chỉ chiếm một phần nhỏ so với tổng trữ lượng, và nguồn cung vàng hàng năm khó có khả năng tăng lên để phản ứng trước diễn biến giá vàng. Tính chất này là điều khiến vàng khác biệt với các loại hàng hóa khác, với khả năng điều chỉnh nguồn cung theo biến động giá cả khá cao, ít nhất là vượt qua mức trung hạn.
Khủng hoảng tài chính, sự can thiệp chưa từng có tiền lệ đến từ ngân hàng trung ương, từng đợt suy thoái kéo dài, sâu sắc, phục hồi hậu suy thoái không ổn định đã dẫn tới hậu quả: nền kinh tế toàn cầu phải đối mặt một nghịch lí lạm phát/giảm phát vô cùng phức tạp. Đối với nhiều nền kinh tế đang phát triển, lạm phát cao đã trở thành thực trạng, chi phí đồ ăn, năng lượng đắt đỏ đang tạo áp lực lên mức thu nhập thực tế của người dân toàn cầu. Nền kinh tế các nước phương Tây thì chứng kiến hiểm họa n