Một yếu tố khác cũng có thể đẩy giá vàng lên cao chính là các bất ổn chính trị. Nhà đầu tư lo sợ chiến tranh, các xung đột dân sự và các căng thẳng quốc tế có thể thúc đẩy nhu cầu mua vàng bởi những lí do tương tự các giai đoạn căng thẳng tài chính nói trên. Chính khả năng trở thành “đồng tiền cuối cùng” có thể trụ vững trong trường hợp hệ thống sụp đổ nghiêm trọng cho người ta động lực để trữ vàng khi tình hình chính trị đặc biệt trầm trọng.
Ở một mức độ nào đó, xử lý căng thẳng tài chính chắc chắn phải kéo theo những quan tâm chính trị, nên phân tích riêng rẽ hai khía cạnh không thực sự dễ dàng. Việc thiếu thang đo rủi ro chính trị khách quan càng khiến việc phân tích khó khăn hơn, do đó, để đo lường ảnh hưởng của chính trị lên giá vàng không hề dễ. Tuy nhiên, tại một số thời điểm nhất định, chính trị thực sự có ảnh hưởng đặc biệt quan trọng lên giá vàng. Cụ thể hơn, giá vàng đã được đẩy lên cuối thập niên 70 và đầu thập niên 80 do những sự kiện như Cách mạng Hồi giáo Iran hay cuộc xâm lược Afghanistan của Xô-viết. Giá vàng cũng tăng đột biến ngay sau vụ tấn công 11.9 năm 2001 ở Mỹ.
2.7. Vàng và hoạt động của khu vực kinh tế công
Những động thái của các ngân hàng trung ước và các bộ phận khác của khu vực công có tầm ảnh hưởng quan trọng lên giá vàng. Một lí do cho việc này là các ngân hàng trung ương nắm giữ một lượng vàng lớn, 30,500 MT (tấn) vào 2010, tức khoảng 15% tổng lượng doanh số vàng đã được khai quật. Kết quả là, những chính sách của ngân hàng trung ương về mua và bán vàng có thể gây ra ảnh hưởng đáng kể, và cũng dễ dàng bị trải qua những nhiều thay đổi lớn qua các thập kỉ.
Những năm thập niên 1950 và 1960, thời kì hoàng kim của hệ thống tỉ giá hối đoái cố định Bretton Woods, các ngân hàng trung ương nói chung chiếm một phần lớn lượng người mua ròng vàng, đây là yếu tố tiên quyết hình thành nguồn trữ vàng của họ. Sau sự sụp đổ của hệ thống Bretton Woods, những năm 1970 và 1980 đã chứng kiến tỉ lệ mua ròng của ngân hàng trung ương gần như không đổi, nhưng chính điều này đã dọn đường c
2.6. Vàng và bất ổn chính trị
Một yếu tố khác cũng có thể đẩy giá vàng lên cao chính là các bất ổn chính trị. Nhà đầu tư lo sợ chiến tranh, các xung đột dân sự và các căng thẳng quốc tế có thể thúc đẩy nhu cầu mua vàng bởi những lí do tương tự các giai đoạn căng thẳng tài chính nói trên. Chính khả năng trở thành “đồng tiền cuối cùng” có thể trụ vững trong trường hợp hệ thống sụp đổ nghiêm trọng cho người ta động lực để trữ vàng khi tình hình chính trị đặc biệt trầm trọng.
Ở một mức độ nào đó, xử lý căng thẳng tài chính chắc chắn phải kéo theo những quan tâm chính trị, nên phân tích riêng rẽ hai khía cạnh không thực sự dễ dàng. Việc thiếu thang đo rủi ro chính trị khách quan càng khiến việc phân tích khó khăn hơn, do đó, để đo lường ảnh hưởng của chính trị lên giá vàng không hề dễ. Tuy nhiên, tại một số thời điểm nhất định, chính trị thực sự có ảnh hưởng đặc biệt quan trọng lên giá vàng. Cụ thể hơn, giá vàng đã được đẩy lên cuối thập niên 70 và đầu thập niên 80 do những sự kiện như Cách mạng Hồi giáo Iran hay cuộc xâm lược Afghanistan của Xô-viết. Giá vàng cũng tăng đột biến ngay sau vụ tấn công 11.9 năm 2001 ở Mỹ.
2.7. Vàng và hoạt động của khu vực kinh tế công
Những động thái của các ngân hàng trung ước và các bộ phận khác của khu vực công có tầm ảnh hưởng quan trọng lên giá vàng. Một lí do cho việc này là các ngân hàng trung ương nắm giữ một lượng vàng lớn, 30,500 MT (tấn) vào 2010, tức khoảng 15% tổng lượng doanh số vàng đã được khai quật. Kết quả là, những chính sách của ngân hàng trung ương về mua và bán vàng có thể gây ra ảnh hưởng đáng kể, và cũng dễ dàng bị trải qua những nhiều thay đổi lớn qua các thập kỉ.
Những năm thập niên 1950 và 1960, thời kì hoàng kim của hệ thống tỉ giá hối đoái cố định Bretton Woods, các ngân hàng trung ương nói chung chiếm một phần lớn lượng người mua ròng vàng, đây là yếu tố tiên quyết hình thành nguồn trữ vàng của họ. Sau sự sụp đổ của hệ thống Bretton Woods, những năm 1970 và 1980 đã chứng kiến tỉ lệ mua ròng của ngân hàng trung ương gần như không đổi, nhưng chính điều này đã dọn đường cho thời kỳ bán ròng những năm 1990 sau đó. Trong thời kỳ này, vàng không được ưa chuộng bởi các ngân hàng trung ương do sự kết hợp của giá vàng giảm, lợi nhuận vượt trội các tài sản khác đem lại và bối cảnh kinh tế và chính trị nói chung lành mạnh.
Tổng doanh số của các khu vực công (bao gồm cả IMF) từ 1989-2009 là gần 8000 tấn, giảm trữ lượng vàng của những công ty công tới 1 phần 5, nhưng vẫn chiếm khoảng 10% tổng nguồn cung vàng. Sự tăng mạnh trong tổng cung sau đó có thể cũng đã đóng góp lớn vào thị trường gấu tồn tại trong phần lớn thời kỳ này cũng như tạm thwoif làm mờ nhạt đi mối liên hệ thường thấy giữa vàng và các biến số kinh tế trong thập niên 1990 nói trên.
Mọi thứ bắt đầu thay đổi với Thỏa thuận về điều phối hoạt động bán vàng đầu tiên của ngân hàng trung ương vào 1999 nhằm giới hạn lượng vàng bán ra trong tương lai. Bằng cách loại bỏ mối đe dọa tới thị trường doanh số bán vàng chính thức đang tăng tốc, những thỏa thuận này đã giúp thúc đẩy nhu cầu đầu tư vào vàng, thứ mà vào đầu những năm 2000 vẫn được đánh giá là có khả năng bị định giá thấp (thấp hơn giá phòng hộ lạm phát ). Đáng chú ý, vàng bắt đầu cho thấy một số mối tương quan tích cực với các biện pháp giải căng thẳng tài chính một lần nữa vào đầu những năm 2000, chẳng hạn như sau sự gia tăng chênh lệch tín dụng đi kèm với sự suy thoái ở Hoa Kỳ và sự sụt giảm của thị trường chứng khoán trong khoảng 2001-2003.
Mới đây nhất, các ngân hàng trung ương một lần nữa mua ròng vàng, mua ròng 73 tấn trong năm 2010 theo số liệu của GFMS - động thái mua ròng đầu tiên kể từ năm 1988. Điều này dường như phản ánh sự cân nhắc lại vị trí thích hợp của vàng trong danh mục đầu tư của họ trong bối cảnh xu hướng giá vàng gần đây, khủng hoảng tài chính toàn cầu và có lẽ cũng là tương lai của đồng đô la với tư cách là đồng tiền dự trữ thế giới. Do đó, có vẻ như lượng mua chính thức đã có đóng góp nho nhỏ vào hoạt động mạnh mẽ gần đây của vàng.
Cùng lúc đó, khi những hợp đồng mua chính thức đẩy giá vàng lên, những động thái mới đây của ngân hàng trung ương thậm chí còn tạo những tác động to lớn hơn. Kể từ 2009, bảng cân đối kế toán của Cục dự trữ liên bang Mỹ (FED) và Ngân hàng Anh, hay ít hơn là Ngân hàng trung ương Châu Âu đã mở rộng đáng kể thông qua việc cho các vay trong lĩnh vực ngân hàng và phương pháp “nới lỏng định lượng”. Trong trường hợp của FED và Ngân hàng Anh, “nới lỏng định lượng” đã chứng kiến hệ số mở rộng của bảng cân đối kế toán lên tới 2,5-3, một sự gia tăng khổng lồ đã đẩy bảng cân đối kế toán lên chiếm tỉ trọng GDP ngang mức thời chiến trước đó.
Chính sách phản ứng mạnh mẽ đối với cuộc suy thoái và khủng hoảng tài chính này đã dấy lên lo ngại trong vài quý lạm phát. Dù bảng cân đối kế toán trước đó sau khi mở rộng đáng kể vẫn chưa đủ để thúc đẩy các biện pháp cung ứng tiền rộng hơn (vốn được coi là động lực chính của lạm phát) phát triển nhanh chóng, một số người cho rằng điều này có lẽ chỉ phản ánh trạng thái “không khỏe” của hệ thống ngân hàng, một khi sức khỏe các ngân hàng hoàn toàn bình phục, các biện pháp tiền tệ rộng rãi sẽ tự khắc tăng lên. Một quan ngại khác là các ngân hàng trung ương tương đối thiếu kinh nghiệm điều hành chính sách tiền tệ dựa trên định lượng (trái với chính sách dựa trên việc giá trị tiền tệ biến động thông qua lãi suất) và có thể mắc các lỗi chính sách nghiêm trọng - ví dụ như chờ quá lâu để rút về gói kích thích tiền tệ - hậu quả của việc hiểu nhầm xu hướng thị trường tài chính tiền tệ.
Do các biện pháp trung hạn về kỳ vọng lạm phát chỉ tăng ở mức khiêm tốn kể từ khi chạm đáy trong cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, lo ngại về lạm phát cao rõ ràng vẫn chưa phổ biến. Tuy nhiên,lập trường lỏng lẻo của các chính sách tiền tệ của Hoa Kỳ và các nền kinh tế lớn khác đã làm tăng nguy cơ tiềm ẩn lạm phát trong tương lai và chỉ điều này thôi có thể đã đủ để kích thích đầu tư đối vào vàng như một "bảo hiểm". Kể từ 2009, mối quan hệ giữa giá vàng và quy mô của bảng cân đối kế toán Fed Hoa Kỳ chắc chắn càng nhắc nhở chúng ta lưu tâm về vấn đề này (xem biểu đồ 2.11).
Nguồn sưu tầm Trây Đơ Lơ Mơ