Tóm tắt tin tức chung:
1. Báo cáo việc làm phi nông nghiệp tháng 12 cho thấy nền kinh tế Mỹ tạo ra thêm 223.000 việc làm, cao hơn mức 200.000 mà các nhà kinh tế của Dow Jones dự báo nhưng là mức thấp nhất kể từ cuối năm 2020 đến nay.
Trong khi đó, tiền lương tăng 0,3%, chậm hơn mức 0,4% dự báo. Việc tiền lương tăng chậm sẽ giúp giảm bớt áp lực lên mặt bằng giá cả nói chung, hạ nhiệt lạm phát.
2. Lĩnh vực dịch vụ chiếm 2/3 nền kinh tế lớn nhất thế giới và đã đứng vững bất chấp chiến dịch tăng lãi suất quyết liệt của Cục Dự trữ Liên bang (Fed) nhằm hạ nhiệt nhu cầu và kiềm chế lạm phát gia tăng. Tuy nhiên, lãi suất quá cao hiện nay dường như đang bắt đầu gây “khó chịu” cho ngành dịch vụ tại Mỹ.
Cụ thể, chỉ số dịch vụ của Viện Quản lý nguồn cung (ISM) đã giảm xuống 49,6%, dưới ngưỡng quan trọng 50% - mức phân định giữa tăng trưởng và suy giảm, gây ngạc nhiên cho các nhà kinh tế. Đáng chú ý, chỉ số hoạt động kinh doanh và chỉ số đơn đặt hàng mới đều lao dốc
3. Cơ quan thống kê của Liên minh châu Âu (Eurostat) cho biết tỷ lệ lạm phát của Khu vực đồng tiền chung châu Âu (Eurozone) đã giảm trong tháng thứ 2 liên tiếp, xuống còn 9,2% trong tháng 12/2022.
Chủ tịch ECB Christine Lagarde hồi tháng trước cam kết sẽ kiềm chế lạm phát, đồng thời cảnh báo Eurozone sẽ phải đối mặt với khả năng tăng lãi suất trong năm 2023 dù hy vọng rằng giá tiêu dùng đã đạt đỉnh.
Lịch sự kiện kinh tế:
.png)
Năng lượng
.jpeg)
Kết thúc tuần giao dịch 02/01 – 08/01, giá dầu lao dốc mạnh, cắt đứt chuỗi tăng 3 tuần liên tiếp trước đó. Giá dầu WTI giảm 8,09% xuống 73,77 USD/thùng, trong khi Brent cũng đánh mất 8,4%, chốt phiên tại mức giá 78,69 USD/thùng. Cùng với đó, giá khí tự nhiên lao dốc hơn 17% trong tuần qua, ghi nhận tuần giảm thứ 4 liên tiếp. Thời tiết ôn hòa trong mùa đông, với một loạt các nhà cung cấp mới và nỗ lực giảm nhu cầu đang giúp khu vực EU giảm phụ thuộc vào nguồn cung từ Nga và tạm thời tránh được một cuộc khủng hoảng năng lượng. Dự trữ vẫn ở mức cao. Tại Đức, các cơ sở lưu trữ đã lấp đầy khoảng 91%, so với mức 54% một năm trước. Trong khi đó, dự báo từ các chuyên gia kinh tế cho rằng mức tiêu thụ tại EU dự kiến sẽ thấp hơn khoảng 16% so với mức trung bình 5 năm trong suốt năm 2023.
Sức nặng từ bài toán về nhu cầu tiêu thụ kém sắc là nhân tố chính chi phối giá dầu trong tuần qua. Việc nhà nhập khẩu dầu thô hàng đầu thế giới là Trung Quốc vẫn còn đang vật lộn vì số ca nhiễm Covid-19 bùng phát mạnh mẽ và chưa có dấu hiệu đã đạt đỉnh, trong bối cảnh mở cửa trở lại đang là lực cản lớn với thị trường dầu. Mặc dù các thông tin tích cực hơn vào cuối tuần, khi nhiều chuyên gia kinh tế và nhà đầu tư đang kỳ vọng Ngân hàng Trung ương Trung Quốc (PBOC) có thể cắt giảm lãi suất và hạ tỷ lệ dự trữ bắt buộc (RRR) nhằm kích thích kinh tế. Tuy nhiên, các chính sách sẽ cần thời gian để có được hiệu quả, và trước mắt, dịch bệnh vẫn đang là trở ngại cho việc tiêu thụ dầu và các sản phẩm của dầu phục vụ hoạt động kinh tế và tiêu dùng, gây sức ép tới giá. Saudi Arabia cũng đã giảm giá bán chính thức (OSP) đối với loại dầu thô tiêu chuẩn xuất khẩu sang Châu Á với mức giảm khoảng 1,5 USD/thùng trong tháng Hai, phản ánh bức tranh tiêu thụ vẫn còn hạn chế.
Báo cáo của Cơ quan Thông tin năng lượng Mỹ (EIA) trong tuần qua cũng phản ánh mức tiêu thụ yếu, với các sản phẩm được cung cấp, một thước đo về nhu cầu đã giảm mạnh 4.6 triệu thùng trong tuần kết thúc ngày 30/12, xuống hơn 18 triệu thùng, thấp hơn nhiều so với mức trung bình 4 năm và cùng kỳ năm ngoái. Hoạt động lọc dầu của Mỹ cũng suy yếu trở lại trong tuần, với nhu cầu đầu vào giảm 2.3 triệu so với tuần trước đó.
Trong bối cảnh này, nguồn cung khó gia tăng tại Mỹ cũng không hỗ trợ được quá nhiều cho giá dầu trong phiên cuối tuần. Theo dữ liệu của hãng dầu khí Baker Hughes, số lượng giàn khoan dầu khí của Mỹ giảm 7 xuống 772 giàn đang hoạt động trong tuần kết thúc ngày 06/01. Trước đó, chính phủ Mỹ ước tính sản lượng dầu đá phiến tăng trung bình từ 300.000 – 400.000 thùng/ngày vào năm 2023, mức tăng tương đối khiêm tốn.
Yếu tố có thể hỗ trợ đáng kể cho giá dầu trong thời gian tới là vấn đề về tiêu thụ tại Trung Quốc, nhất là khi mới đây, Chính phủ nước này đã liên tục có những biện pháp kích thích nền kinh tế mạnh tay.
Kim Loại
.jpeg)
Thị trường kim loại kết thúc tuần giao dịch đầu tiên của năm 2023 với một diễn biến phân hoá giữa các mặt hàng. Với nhóm kim loại quý, giá vàng tăng 2.26% lên 1865.71 USD/ounce, giá bạch kim duy trì được sắc xanh tuần thứ 3 liên tiếp với mức tăng 1.76% lên 1092.6 USD/ounce. Trái lại, giá bạc giảm nhẹ 0.24% về 23.98 USD/ounce.
Các mặt hàng kim loại quý tăng vào phiên đầu tuần và cuối tuần, còn trong các phiên giữa tuần, giá khá nhiều sức ép do thị trường đón nhận nhiều tin tức tiêu cực. Một mặt, dòng tiền rời khỏi các thị trường kim loại quý do sự tăng giá của đồng USD. Những lo lắng về việc Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) tiếp tục tăng lãi suất thêm 50 điểm cơ bản thay vì 25 điểm cơ bản khiến cho chỉ số Dollar Index đã có lúc chạm mức 105.6 điểm, mức cao nhất trong vòng một tháng.
Tuy nhiên, đà tăng của đồng bạc xanh đã chững lại trong phiên giao dịch cuối tuần, khi Mỹ công bố mức thu nhập trung bình theo tháng giảm so với dự báo, bởi áp lực lạm phát tiền lương giảm bớt sẽ khiến Fed giảm tốc độ tăng lãi suất.
Giá bạch kim tăng mạnh hơn giá bạc bởi nguồn cung kim bạch kim đang bị thắt chặt hơn so với bạc. Tuy nhiên, việc thanh khoản trên thị trường bạch kim đang giảm trong các phiên gần đây có thể là một yếu tố làm gia tăng rủi ro trên thị trường.
Với nhóm kim loại cơ bản, giá đồng tăng 2.64% lên 3.91 USD/pound, giá quặng sắt tăng 1.31% lên 118.68 USD/tấn. Giá chịu sức ép vào các phiên đầu tuần, bởi chỉ số Quản lý thu mua (PMI) tháng 12 tiêu cực cho thấy hoạt động sản xuất suy yếu ở cả Mỹ và Trung Quốc. Sau đó, giá đồng và quặng sắt đã hồi phục trở lại nhờ những chính sách kích thích tích cực của nhà tiêu thụ số một thế giới: Trung Quốc. Các nhà chức trách có thể sẽ có các biện pháp hỗ trợ tài chính cho các công ty bất động sản như nới lỏng giới hạn vay và đẩy lùi thời gian ân hạn. Các nhà đầu tư cũng đang kỳ vọng Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc (PBOC) sẽ nới lỏng chính sách tiền tệ để hỗ trợ nền kinh tế.
Trong tuần này, rất nhiều số liệu lạm phát của Mỹ và Trung Quốc sẽ được công bố. Các nhà hoạch định chính sách sẽ căn cứ vào các số liệu để điều chỉnh chính sách tiền tệ một cách thích hợp. Tuy nhiên cách tiếp cận của PBOC và Fed sẽ khác nhau, bởi nếu lạm phát tiếp tục hạ nhiệt thì Trung Quốc sẽ hướng tới việc cắt giảm lãi suất còn Fed thì chỉ dừng lại ở viẹc hạ tốc độ tăng lãi suất.
Nông sản
.jpeg)
Khép lại tuần giao dịch vừa qua (02/01 – 08/01), giá ngô đã giảm trở lại sau 3 tuần liên tiếp tăng giá. Ảnh hưởng của thời tiết lên mùa vụ ở Nam Mỹ vẫn chưa rõ ràng nhưng áp lực cạnh tranh ngắn hạn từ hoạt động xuất khẩu ở các nước sản xuất đã khiến giá ngô trên Sở Chicago suy yếu.
Theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA) nước này chỉ bán được hơn 300.000 tấn ngô trong tuần vừa rồi, giảm mạnh 60% so với tuần trước đó và nằm dưới khoảng kỳ vọng của thị trường. Trong khi đó, Hiệp hội Các nhà Xuất khẩu Ngũ cốc Brazil (ANEC) ước tính nước này đã xuất khẩu 43,17 triệu tấn ngô trong năm 2022, tăng gần gấp đôi so với năm 2021. Khối lượng bán hàng được đẩy mạnh chủ yếu trong giai đoạn cuối năm, kể từ khi Trung Quốc bắt đầu nhập khẩu ngô của Brazil. ANEC cũng dự báo Brazil sẽ xuất khẩu 4,3 triệu tấn ngô trong tháng 1 năm nay, tăng mạnh so với cùng kỳ các năm trước. Các vấn đề vận chuyển ở Biển Đen đã gần như được nối lại hoàn toàn sau chiến tranh cùng với cạnh tranh từ nguồn cung của Brazil đã tạo áp lực lên giá lúa mì Mỹ trong tuần vừa rồi.
Giá lúa mì cũng đóng cửa tuần giao dịch vừa qua trong sắc đỏ và đây cũng là tuần giảm mạnh nhất trong 6 tháng qua của mặt hàng này. Triển vọng nguồn cung nới lỏng hơn là nguyên nhân chính lý giải cho diễn biến sụt giảm của lúa mì.
Báo cáo Tiến độ mùa vụ cũng do USDA phát hành hàng tháng cho thấy tình trạng lúa mì vụ đông ở Mỹ mặc dù không nhận được lượng độ ẩm phù hợp nhưng cũng không gặp phải quá nhiều rủi ro đáng kể. Tại Kansas, bang sản xuất khoảng 27% sản lượng vụ đông, lúa mì tại được đánh giá 19% tốt-tuyệt vời, 32% trung bình và 49% kém-rất kém. Trong khi đó, ở những khu vực gieo trồng khác như Colorado, Montana, các trận bão tuyết mạnh đã giúp bao phủ lên cây trồng và hạn chế tác động tiêu cực từ thời tiết lạnh giá gây nên tình trạng tiêu cực đối với lúa mì. Ngoài ra, với lượng mưa dự báo sẽ gia tăng ở những khu vực sản xuất chính trong hai tuần tới, chất lượng mùa vụ cũng được kỳ vọng sẽ cải thiện.
Ngoài ra, tại Australia, lượng mưa lớn và lũ lụt năm 2022 nhưng sản lượng lúa mì của Australia dự kiến sẽ tăng lên mức kỷ lục 42 triệu tấn do công đoạn thu hoạch cuối cùng cho thấy năng suất cao hơn dự kiến. Các thông tin khả quan về mùa vụ ở các nước đã tạo sức ép lên giá lúa mì.
Nguyên liệu công nghiệp
.jpeg)
Kết thúc tuần giao dịch đầu tiên trong năm 2023, bảng giá các mặt hàng nhóm nguyên liệu công nghiệp ghi nhận sự phân hóa giữa sắc xanh và đỏ. Hai mặt hàng cà phê diễn biến trái chiều với mức giảm sâu hơn 5% của Arabica dưới sức ép từ mức tồn kho đạt chuẩn cán mốc cao nhất trong 06 tháng.
Arabica có tuần giao dịch với 4/4 phiên đều mang sắc đỏ do mức tồn kho đạt chuẩn trên ICE US chạm mức cao nhất trong 06 tháng và vẫn còn dư lượng tăng trong thời gian tới. Theo đó, tính đến hết ngày 06/01, tổng lượng tồn kho đạt chuẩn của Arabica trên Sở ICE US đạt trên 830,272 nghìn bao, mức cao nhất trong 06 tháng qua sau khi chạm mức thấp nhất trong 22 năm vào đầu tháng 11. Cùng với đó, các chuyên gia dự đoán còn hơn 200,000 bao đang chờ được phân loại để đẩy vào các kho của ICE trong thời gian tới và tiếp tục gây sức ép lên giá. Dù vậy, trong tuần qua cũng chứng kiến việc số liệu xuất khẩu giảm sút tại các quốc gia cung ứng chính như Brazil, Colombia đã phần nào hạn chế đà giảm của mặt hàng này.
Hai mặt hàng đường cũng có tuần giảm mạnh khi mức giảm giao động trong khoảng 5% đối với 2 mặt hàng. Sản lượng đường tích cực tại Ấn Độ cùng với chính sách nhiên liệu của Brazil là nguyên nhân chính dẫn đến sự suy yếu này. Theo đó, sản lượng đường trong 3 tháng cuối năm 2022 của Ấn Độ ước tính đạt 12.7 triệu tấn, tăng 3.7% so với cùng kỳ năm ngoái, tạo ra sự an tâm nhất định về nguồn cung đối với thị trường. Thêm và đó, Brazil quyết định gia hạn lệnh miễn thuế đối với xăng và ethanol, điều này gián tiếp khiến nguồn cung đường tại quốc gia xuất khẩu lớn nhất thế giới có thể nới lỏng trong thời gian tới, từ đó gây sức ép khiến giá giảm mạnh.
Dầu cọ thô cũng ghi nhận sắc đỏ trong tuần giao dịch đầu tiên của năm mới, đóng cửa tuần giá giảm gần 3% do sức ép từ số liệu xuất khẩu của Malaysia. Theo đó, hoạt động xuất khẩu của Malaysia những ngày đầu năm mới có dấu hiệu chững lại đã gây sức ép lớn lên giá. Theo công ty khảo sát hàng hóa Intertek Testing Services, xuất khẩu các sản phẩm dầu cọ trong 5 ngày đầu tháng 01 của Malaysia chỉ đạt 71,000 tấn, giảm 68.2% so với cùng kỳ tháng trước.
Ở chiều ngược lại, Robusta được hỗ trợ từ việc tồn kho đạt chuẩn trên ICE UK đang ở mức thấp và lo ngại nguồn cung suy yếu tại Việt Nam, giúp mặt hàng này tăng hơn 1% trong tuần qua. Tính đến hết ngày 06/01, tổng mức tồn kho Robusta đạt chuẩn trên Sở ICE UK đạt 64,020 tấn, mức thấp trong hơn 4 năm qua và là tuần giảm thứ 10 liên tiếp. Cùng với đó, việc mưa lớn xuất hiện tại vùng Tây Nguyên của Việt Nam trong tuần qua có thể làm gián đoạn hoạt động thu hoạch và sản xuất cà phê của nước xuất khẩu Robusta lớn nhất thế giới và điều này cũng khiến thị trường lo ngại sản lượng sẽ tiếp tục suy yếu sau mức dự đoán giảm 10-15% trước đó.
Cùng đà tăng với Robusta, giá bông trong tuần qua cũng ghi nhận mức tăng gần 3%. Đà tăng của bông chủ yếu được hỗ trợ bởi mức giảm mạnh gần 4% trong phiên cuối tuần ghi Dollar Index giảm mạnh. Dollar Index giảm đồng nghĩa với việc đồng Dollar Mỹ suy yếu và giá bông trở nên rẻ hơn đối với khách hàng nắm giữ các loại tiền tệ khác, từ đó kích thích lực mua trên thị trường và hỗ trợ giá. Bên cạnh đấy, thị trường vẫn kỳ vọng nhu cầu tiêu thụ của Trung Quốc sẽ hồi phục sau khi Zero Covid được nới lỏng, tạo đà giúp giá đi lên trong thời gian tới.
Nguồn: Trung tâm tin tức sở giao dịch hàng hóa phái sinh Việt Nam & VMEX